Saturday 31 August 2013

THÔNG BÁO CỦA BAUXITE VIỆT NAM (Bauxite Việt Nam)




01/09/2013

Trang mạng Bauxite Việt Nam được thành lập từ tháng 4-2009, do ba người khởi xướng là GS Nguyễn Huệ Chi, Nhà giáo dục Phạm Toàn và GSTS Nguyễn Thế Hùng, và do GS Nguyễn Huệ Chi trực tiếp điều hành, tính đến nay đã hoạt động được 4 năm 4 tháng. Mục tiêu trước sau như một của chúng tôi là lên tiếng phản biện các vấn đề bức bối của đất nước Việt Nam trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; đánh giá những việc làm cụ thể của nhà đương quyền và các chính sách đối nội cũng như đối ngoại của họ trong từng giai đoạn, trên lý thuyết cũng như hiệu quả trong thực tiễn, nhưng không sa vào đả kích hoặc ủng hộ cá nhân; cổ vũ cho đường lối tự do dân chủ hóa đất nước nhằm xây dựng một xã hội công dân rộng rãi, tạo điều kiện về mặt ngôn luận để nó hình thành và ngày càng phát triển vững mạnh, phá vỡ nền chuyên chế độc trị kéo lùi sự phát triển của đất nước và đẩy nhiều tầng lớp nhân dân đến bần cùng, nhờ đó nâng cao thế và lực của toàn dân, tăng sức mạnh bảo vệ độc lập dân tộc.

Hơn 4 năm qua Bauxite Việt Nam đã trung thành với những nguyên tắc bất di bất dịch ấy, nhờ đó đã nhận được sự cảm thông, chia sẻ, hưởng ứng của đông đảo bạn đọc trong cũng như ngoài nước, mặc dù đã từng gặp không ít khó khăn: trang mạng liên tục bị đánh phá, đánh cắp tài khoản, và đã phải thay đổi hình thức mấy lần; người điều hành cũng bị thẩm vấn và mời làm việc nhiều lần từ năm 2009 cho đến ngay gần đây, nhưng kết quả ông vẫn được thừa nhận là một trí thức yêu nước, có thiện chí đóng góp vào việc xây dựng đất nước.

Chúng tôi nguyện sẽ theo đuổi mục tiêu đã nêu cũng như tiếp tục giữ vững các nguyên tắc làm việc của mình, đồng thời cố gắng hơn nữa trong việc kiểm chứng các thông tin sẽ lần lượt được đưa lên mạng.

Về nhân sự, sau hơn 4 năm góp phần mình dẻo dai không mệt mỏi, GS Nguyễn Huệ Chi nay cần dành thì giờ hoàn thiện một số công trình chuyên môn về văn học Lý – Trần còn dang dở. Vì thế, nhóm sáng lập đã mời GS Phạm Xuân Yêm, một trí thức có uy tín hiện sống tại Pháp, lâu nay vẫn yểm trợ trang Bauxite Việt Nam, đứng ra đảm nhiệm việc quản trị trang Bauxite Việt Nam thay cho GS Nguyễn Huệ Chi một thời gian. Tất nhiên, GS Nguyễn Huệ Chi vẫn là người giúp đỡ đắc lực cho ông trong các vấn đề chuyên môn và việc thực hiện sát đúng cương lĩnh của trang.

Bauxite Việt Nam mong tiếp tục nhận được sự cộng tác ngày càng tăng của các cộng tác viên cũ và mới, sự ủng hộ và chia sẻ ngày càng rộng rãi của bạn đọc trong ngoài nước.

Chụp ảnh chung với Đại sứ David Shear trong lễ quốc khánh Hoa Kỳ ở Hà Nội tối 3-7-2013. Từ trái sang: Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, David Shear, Phạm Toàn, Lại Nguyên Ân. Ảnh: Nguyên Bình.

Vậy xin kính báo để toàn thể bạn đọc trong ngoài đều biết.

Trân trọng cảm ơn.

Bauxite Việt



CÁC NHÀ BẢO VỆ NHÂN QUYỀN VI ĐỨC HỒI, PAULUS LÊ SƠN & NGUYỄN VĂN OAI BỊ NGƯỢC ĐÃI TRONG TÙ (Front Line Defenders)





Bản dịch của Hành Nhân  (Defend the Defenders)
Posted on August 31, 2013 by VNHRDs

Dựa trên những thông tin được cung cấp cho Front Line Defenders vào ngày 24/08/2013, những nhà bảo vệ nhân quyền Vi Đức Hồi và Nguyễn Văn Oai được lệnh phải chịu biệt giam trong 6 tháng từ 20/07/2013 nhằm trả đũa việc phản đối của họ đối với việc ngược đãi người bạn cùng bảo vệ nhân quyền Paulus Lê Sơn. Những nhà bảo vệ nhân quyền này hiện đang bị giam giữ tại nhà tù Nam Hà.

Từ trái sang phải: ông Vi Đức Hồi, anh Paulus Lê Sơn, anh Nguyễn Văn Oai

Ông Vi Đức Hồi là một nhà hoạt động dân chủ và thành viên của Khối 8406, một mạng lưới ủng hộ dân chủ của những nhà bảo vệ nhân quyền và các tổ chức nhân quyền. Ông cũng là một người lãnh nhận giải thưởng nhân quyền Hellman/Hammett năm 2009. Năm 2011, ông bị kết án 8 năm tù giam. Vào ngày 26/04/2011, phiên tòa phúc thẩm đã giảm án xuống còn 5 năm và 3 năm quản chế.

Ông Paulus Lê Sơn là một blogger, một nhà hoạt động cho người bị nhiễm HIV và là một nhà báo viết những vấn đề về công bằng xã hội ở Việt Nam, đã bị bắt vào ngày 03/08/2011. Ông đã bị kết án 13 năm tù giam và 5 năm quản chế. Vào ngày 23/05/2013, bản án đó được tòa phúc thẩm giảm xuống còn 4 năm tù giam và 4 năm quản chế.

Ông Nguyễn Văn Oai là một thành viên của một tổ chức Công giáo Dòng Chúa Cứu Thế và tích cực tham gia vào việc thăng tiến và bảo vệ các quyền lợi về kinh tế, xã hội và văn hóa ở Việt Nam. Cả hai người (Sơn và Oai) đều bị kết án them điều 79 của BLHS liên quan đến “tiến hành những hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.

Vào ngày 18/07/2013, Paulus Lê Sơn bị cai ngục đánh đập dã man vì ông không chào họ. Mặc dù chân ông bị gãy và cần được chăm sóc y tế, nhưng ông đã bị đưa vào biệt giam. Khi thăm viếng ông vào ngày 21/08/2013, gia đình Paulus Lê Sơn nhận thấy rằng ông vẫn còn đau đớn và đi lại khó khăn.

Không chấp nhận sự đối xử hà khắc này của các cai ngục, Vi Đức Hồi, Nguyễn Văn Oai và nhà hoạt động về quyền lợi đất đai Đỗ Văn Hòa đã đệ đơn khiếu nại các cai ngục và, như một dấu hiệu phản đối, họ cũng từ chối lao động. Ngoài ra, Vi Đức Hồi đã gởi một thỉnh nguyện thư đến Chủ tịch nước Việt Nam yêu cầu ông xem xét những điều kiện giam giữ ở nhà tù Nam Hà. Như một sự trả đũa cho những hành động này, cả ba người đàn ông đã bị biệt giam trong 6 tháng. Mặc dù họ được phép cho gia đình thăm gặp mỗi tháng một lần, nhưng họ không được tiếp cận với luật sư hoặc bác sĩ.

Để biết thêm thông tin về các trường hợp của Paulus Lê Sơn và Nguyễn Văn Oai, xin vui lòng xem Lời kêu gọi khẩn cấp do Front Line Defenders công bố vào ngày 14/11/2011 và 16/05/2013, và bản cập nhật vào ngày 24/05/2013.




ĐÃ ĐẾN LÚC BỎ ĐẢNG CHƯA ? (Phạm Nhật Bình)




Phạm Nhật Bình
Cập nhật: 31/08/2013

Trong những năm đói liên tục ngay sau 1975, người dân khắp nơi, đặc biệt trong Nam, ráng cười với nhau qua câu: sẽ có ngày “sao dzàng bảng đỏ” khắp nơi (tức sẽ có ngày "sang giàu bỏ đảng" khắp nơi). Tuy có phần hả hê khoái chí nhưng bà con mình hồi đó phải ngó trước nhìn sau, nói nho nhỏ, và cười thì thầm. Phải mất đến 47 năm sau, mới có một người dám nói lớn, nói công khai cho toàn dân nghe, nói bằng giấy trắng mực đen, nói từ giường bệnh của mình. Ông Lê Hiếu Đằng kêu gọi các đảng viên CSVN hãy mạnh dạn bỏ đảng.

Thật ra không phải bây giờ mới có đảng viên bỏ đảng hay bàn đến chuyện hãy cùng nhau vì nước bỏ đảng. Trường hợp có thể coi là điển hình đầu tiên sau 1975 là bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (1930- 2006). Bà từng làm Bộ trưởng Y tế của chính phủ CMLTMNVN. Sau 1975, bà nhận ra: “Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẻ thù tiềm ẩn.” Không khí bao trùm những năm tháng thời đó vô cùng ngột ngạt nhưng bà vẫn nhất quyết đệ đơn chính thức ra khỏi đảng. Khi các thuyết phục và nỗ lực lấy gia đình bà ra hăm dọa không thành, ông Lê Đức Thọ chấp thuận cho bà ra khỏi đảng nhưng cấm tiết lộ với bất cứ ai trong vòng 10 năm.
Trường hợp điển hình thứ nhì của những người chọn lương tâm thay vì chọn đảng CSVN, một khi đã nhìn ra sự thật, là ông Nguyễn Hộ và các bạn hữu của ông trong Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ ở Sài Gòn, như ông Hồ Trung Hiếu, Bác sĩ Đỗ Thị Văn, ông Đỗ Trung Hiếu, v.v.... Họ chọn cách bỏ đảng bằng việc tham gia vào những hành động mà họ biết chắc sẽ bị khai trừ. Hành động mà họ chọn là nói lên sự thật về tình trạng đất nước, về khát vọng dân chủ và tự do của dân tộc.

Cách bỏ đảng ấy tiếp tục nơi ông Trần Xuân Bách, tướng Trần Độ, cựu đại tá Phạm Quế Dương, ông Hoàng Minh Chính, ... của các thập niên trước, kéo dài đến những con người rất can đảm như cựu trung tá Trần Anh Kim, nhà văn Phạm Đình Trọng, cựu chủ nhiệm trường đảng Vi Đức Hồi, kỹ sư Nguyễn Chí Đức... của ngày hôm nay.

Nhưng có lẽ ông Lê Hiếu Đằng và các bạn đồng chí hướng của ông là những người vẽ ra con đường trách nhiệm rõ nhất và cụ thể nhất cho những đảng viên Cộng sản còn lại:

  • Ông Đằng đặt câu hỏi: “Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ Xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến khi bị Đảng CS bức tử phải tự giải tán.” Vì theo ông, "“Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập: lập pháp, hiến pháp, tư pháp độc lập. Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông qua Hiến pháp mới.”

  • Tiếp liền theo đó, ông Hồ Ngọc Nhuận trong một bài viết mang tên Phá xiềng đã mạnh dạn kêu gọi: "Các bạn đảng viên cộng sản thật sự yêu nước, từng cả đời dấn thân đấu tranh vì lý tưởng độc lập Tổ Quốc, tự do dân chủ và nhân đạo, nhưng ngày càng nhận thấy đã bị đảng mình phản bội, mà số này là rất đông, hãy mạnh dạn dứt khoát đứng vào hàng ngũ Đảng Dân chủ Xã hội mới.”

  • Họ có cùng nhật xét về lý do bỏ đảng như ông Nguyễn Chí Đức: “Lý do bỏ đảng thì có nhiều như mưu sinh, sức khỏe, hoàn cảnh gia đình v.v… và một lý do nữa là vấn đề về tư tưởng đã không còn tin vào chủ thuyết Cộng sản, chán ngán với hàng ngũ lãnh đạo cầm quyền….. Một nghịch lý, tuy Đảng rất đông thành viên nhưng nó đã mất lý tưởng, đại đa số đảng viên đã xa rời cương lĩnh của Đảng do chính họ viết ra.”

  • Họ cùng chia sẻ ước mơ của ông Nguyễn Trung trong bài viết Hoang tưởng và hiện thực: “Thông qua thay đổi hòa bình, đưa đất nước thoát khỏi trạng thái nhiễu nhương tê liệt hiện nay, mở ra cho đất nước một thời kỳ phát tiển mới.” Vì “Trên đời này chẳng có chủ nghĩa nào hay cuộc cách mạng nào, cũng chẳng có công nghiệp hóa - hiện đại hóa nào có thể lôi dắt đất nước ta ra khỏi quá khứ gian truân dằng dặc từ hai thế kỷ vừa qua và của bảy thập kỷ qua để đi tới Hạnh phúc – Văn minh mà chỉ có con đường của tự do dân chủ để phát triển.”

Nhưng có một điều cho tới giờ cả 4 vị trên và nhiều người can đảm đi đầu khác chưa đề cập đến, đó là câu hỏi: Còn cái sổ hưu thì sao?

Càng ngày lãnh đạo đảng không những càng không che đậy ý đồ dùng sổ hưu làm xích trói mà còn thường xuyên cho những cán bộ như Đại tá - Phó Giáo sư - Tiến sĩ - Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đăng Thanh đi dứ sổ hưu vào mặt đảng viên với lời cảnh cáo báng bổ: “Bảo vệ tổ quốc Việt Nam thời XHCN hiện nay có rất nhiều nội dung, trong đó có một nội dung rất cụ thể, rất thiết thực với chúng ta đó là bảo vệ sổ hưu cho những người đang hưởng chế độ hưu và bảo vệ sổ hưu cho những người tương lai sẽ hưởng sổ hưu, ví dụ các đồng chí ngồi tại đây.”

Nhưng thử nhìn lại sợi dây xích này. Trước hết, đại đa số đảng viên Cộng sản hiện nay không có và không cần đến sổ hưu. Ngay cả các đảng viên lớn tuổi cũng không hẳn ai cũng có sổ hưu. Hơn thế nữa, nếu không từng là các quan chức cỡ lớn thì cái gọi là sổ hưu chưa hề đủ để đảng viên sinh sống. Hầu hết các đảng viên có sổ hưu vẫn phải sống nhờ con cháu.

Trong khi đó, như đang thấy ở hầu hết các nước dân chủ, khi lòng nhân bản trong xã hội được phục hồi, khi nhân phẩm của từng con người được đề cao và được luật pháp nghiêm minh bảo vệ, và nhất là đối với trường hợp Việt Nam, khi truyền thống đùm bọc lẫn nhau "nhiễu điều phủ lấy giá gương" của dân tộc được sống lại, thì chắc chắn trong xã hội mới đó, không một một thành phần nào bị bỏ rơi, dù già, dù trẻ, dù kinh, dù thượng, ..... Mọi con dân Việt không phải sống bám vào một đảng phái, một nhóm lợi ích nào. Họ, đặc biệt những công dân lớn tuổi, đương nhiên được hưởng các chính sách an sinh xã hội của chính phủ và được luật pháp hóa hẳn hoi như đang thấy tại các nước dân chủ, văn minh.

Nhưng để tiến tới được xã hội mới đó, bước đầu tiên là phải dứt bỏ sợi giây xích "sổ hưu" hiện nay. Vì để được số tiền nhỏ nhoi đó, nhiều đảng viên lớn tuổi đã và đang bị đảng buộc phải làm những chuyện trái với lương tâm: từ những buổi đấu tố tại các tổ dân phố đối với các ứng viên tranh cử độc lập hay các nhà hoạt động dân chủ cho tương lai đất nước; đến việc kéo nhau đi đóng kịch, ngồi cho kín các hàng ghế tại các buổi "xử công khai" trong các vụ án chính trị; đến các buổi "khuyên bảo" tại nhà những người yêu nước hãy đừng lên tiếng phản đối nước "Trung Quốc anh em" nữa; đến các lệnh phải đi chửi mướn trong vai "dân tự phát" trước các nhà thờ, đền chùa, thánh thất, ....

Ngày nào gỡ được sợi xích sổ hưu và bỏ đảng lại phía sau, ngày đó, giá trị của danh dự , lương tâm và ý thức trách nhiệm sẽ sống lại trong từng con người:

  • Trách nhiệm đối với sự tồn vong của dân tộc. Mức độ báo động đang gia tăng từng ngày. Giới lãnh đạo đảng nay không chỉ đã chấp nhận mất biển đảo tổ quốc (đàng sau những phản ứng chiếu lệ và các màn kịch mua vũ khí, tổ chức hội thảo, ...) mà còn đang mở cửa choTrung Quốc vào dựng thêm các khu biệt lập tại những vùng đất hiểm yếu trên khắp nước Việt Nam; cùng lúc với việc tập cho người Việt quen dần với sự tiến sâu của quyền lực Trung Quốc vào lãnh vực kinh tế và văn hóa Việt Nam. Chúng ta có nên tiếp tay cho đảng tiếp tục con đường này không?

  • Trách nhiệm đối với những đồng đội đã nằm xuống. Không những tên tuổi của họ đã bị tẩy rửa khỏi sử sách, mồ mả của họ bị đập phá, mà những hy sinh xương máu của họ cho chủ quyền và độc lập tổ quốc đang bị phản bội. Hàng triệu những cái chết ở tuổi thanh xuân và tật nguyền suốt đời ấy đang trở nên hoàn toàn vô nghĩa. Chúng ta có nên tiếp tay cho đảng tiếp tục con đường này không?

  • Trách nhiệm đối với cháu con. Tại thời điểm này khó còn có ai tin rằng nạn tham nhũng sẽ thôi gia tăng - chứ chưa nói gì đến giảm xuống hay chấm dứt; Khó còn có ai tin rằng hệ thống giáo dục, y tế sẽ không tiếp tục tệ hại thêm; Khó còn có ai tin rằng công an sẽ không ngày càng một đông hơn, hung tợn hơn, và trấn lột dân bạo dạn hơn; .... Và nạn nhân của tất cả tai ách đó là chính các con, các cháu của từng người đảng viên trong những thập niên trước mặt, khi mà những người đảng viên đó đã đi xa khỏi thế gian này. Chúng ta có nên tiếp tay cho đảng tiếp tục con đường này không?

Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là những trách nhiệm đối với chính mình. Đã đến lúc những người đảng viên không rời bỏ đảng sẽ cùng chia tội bán nước với đảng. Lịch sử của dân tộc chắc chắn sẽ ghi rõ tội bán nước của đảng CSVN hôm nay. Nhưng gia phả của từng dòng họ và trí nhớ của từng gia đình cũng sẽ ghi nhận những vết nhơ: có cha, mẹ, ông, bà là đảng viên CSVN tới tận ngày chết.

So với những năm tháng đã qua, có lẽ hiện nay là thời điểm thuận lợi nhất để bỏ đảng, về đồng hành với dân tộc. Sau nhiều năm tháng tranh cãi và đắn đo, chưa bao giờ dân tộc chúng ta sẵn sàng đón nhận nhau, gạt qua quá khứ vì những hiểm họa hiện tại và tương lai đất nước như hiện nay. Một lý do chính là vì phần lớn dân tộc đã cùng nhận ra chúng ta, kể cả các đảng viên Cộng sản, kể cả các chiến sĩ ở 2 bên trận tuyến trước 1975, và các thế hệ từ đó đến nay đều là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng sản và của cỗ máy chuyên chính Lênin-Stalin-Mao trên đất nước.

Những cảnh rời bỏ đảng sẽ bị cô lập và hành hạ cho đến chết cũng không còn nữa. Ngược lại, những tiếng nói can đảm kêu gọi cùng nhau công khai vì nước bỏ đảng đang nhận được sự thán phục, quí trọng, và đùm bọc của nhiều tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước.

Đã quá đủ cảnh làm ngơ chấp nhận sự hiện hữu của một cơ chế lạc hậu, tàn ác, nhất định dìm cả dân tộc trong lạc hậu đói nghèo chỉ vì lợi riêng của một số gia đình ở thượng tầng. Và đối với nhiều đảng viên lớn tuổi, cũng không còn nhiều thời gian để trả lời món nợ lương tâm. Xin hãy để lại cho con cháu những hình ảnh đáng kính về lòng can đảm, yêu nước, yêu dân tộc của cha, mẹ, ông, bà.

"Vì nước bỏ đảng" phải chăng là tiếng gọi thiêng liêng nhất hiện nay của tình yêu tổ quốc?


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MỞ CỬA MỜI TRUNG QUỐC CHIẾM BIỂN ĐÔNG - KỲ 1 (Huỳnh Tâm)




Chi tiết
Được đăng ngày Thứ sáu, 30 Tháng 8 2013 22:51

“…Mỗi bên đồng hợp tác 27 năm, cho nhiều thế hệ tiếp nối liên tục, khai thác quần đảo Bạch Long Vĩ. Nói cách khác, Đặng Tiểu Bình muốn tìm thời gian dài để tiện nuốt trửng Vịnh Bắc Bộ không thông qua phân định lại hải giới…”

*

Việt Nam mất Vnh Bắc Bộ khi nào ?

Người dân Việt yêu đất nước đã phải chảy máu và nước mắt xuống đường phố Hà Nội và Sài Gòn. Rồi cuối cùng chịu cảnh ngồi tù, chấp nhận mọi nhục hình của nhà nước cộng sản Việt Nam, chỉ vì người dân biết đứng lên nói tiếng nói yêu nước, phản đối Trung Quốc chiếm cứ Biển Đông của Tổ quốc Việt Nam.

Xưa nay người yêu nước làm thăng tiến xã hội, bởi mỗi con dân Việt, đã từng lấy máu, nước mắt và sức lao động, tô điểm Tổ quốc thân yêu, tất cả đã kết tụ thành sức mạnh tạo nên bề dày lịch sử hơn 5000 năm. Đến đầu thế kỷ 21 này, Đảng Cộng sản Việt Nam không có một lý do nào có thể viện dẫn để bỏ mất Biển Đông một cách phi lý, mà không thông qua ý kiến của toàn dân. Càng không cho phép bất cứ tập thể nhỏ bé hay cá nhân nào đứng trên đầu dân tộc Việt Nam. Chỉ có kẻ vô Tổ quốc mới tự tay ký kết văn kiện dâng biển Đông cho giặc.

Biển Đông Việt Nam là nguồn phát sinh tài nguyên vô cùng to lớn. Thiên nhiên đã ban phú cho dân tộc Việt cho một góc trời chiến lược phong phú, để xây dựng vận mệnh ngàn đời và trở nên điểm yếu trọng của Châu Á. Nay bỗng chốc Biển Đông thuộc về bành trướng phương Bắc, và tất nhiên Việt Nam hết giá trị, chỉ còn là một cục đất chết. Sẽ đến ngày đất nước hòa tan vào tay kẻ chiếm biển. Biển không những cung cấp tài nguyện vô tận, như thủy sản, dầu khí, chất đốt, du lịch, muối. Ngoài ra còn có một trữ lượng thiên nhiên khổng lồ, như gió, thủy triều hóa điện, môi trường, không gian và biển tính. Bấy nhiêu kho tàng tiềm ẩn trong lòng biển Đông. Một hứa hẹn Việt Nam mai sau tươi sáng nay đã bị Đảng Cộng sản Việt Nam biếu không cho Trung Quốc đổi lấy sự sống phù du cho đảng độc trị, một chế độ tham nhũng nhất, chưa bao giờ thấy qua trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) một vị trí chiến lược quan trọng của Vịnh Bắc Bộ Việt Nam

Trung Quốc vốn có tham vọng bành trướng và nhân dịp Mao Trạch Đông tiến hành chủ nghĩa cộng sản quốc tế, đẩy một hình nộm Hồ Chí Minh vào Việt Nam múa bài ca vô sản, tạo ra chiến tranh thu hút con người như những con thiêu thân, xây dựng cơ sở vũ trang, đưa vũ khí vào Việt Nam nhân danh tình hữu nghị anh em, thành lập nhân sự tình báo Hoa Nam, tuyên truyền tạo lòng tin cướp chính quyền. Kết quả đất nước Việt Nam hoà tan vào đất Hán.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã âm thầm xoáy mòn biên giới từ năm 1940. Sau chiến tranh ngày 17/2/1979, đất Việt bị sạt một mảnh bờ cõi, mất một góc một phía Tây Bắc-Biển Đông, trung tâm Vịnh Bắc Bộ, và nay cả biển Đông. Đảo Hải Nam trước đây là một đảo cũ, nơi phòng thủ tốt của Nam Việt bị nhà Hán chiếm cứ vào cuối thời nhà Triệu (Nam Việt 207 TCN-111 TCN). Đảo Hải Nam có vị trí chiến lược giúp cho kẻ trộm dòm ngó vào nhà Việt Nam.

Tiếp theo, Hồ Chí Minh đạo diễn một vở kịch khôn ngoan dùng Công hàm do Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958, nhượng vùng Biển Đông cho Trung Quốc. Trước khi "công hàm 14/9/1958" xuất hiện, Hồ Chí Minh đã gửi thông tư mật số 342 chính phủ, chấp nhận Trung Quốc thôn tính quần đảo Vịnh Bắc Bộ có trên 27 đảo lớn nhỏ. Trung Quốc âm thầm chọn Bạch Long Vĩ (Bailongwei-龙尾), đảo lớn nhất của trung tâm Vịnh Bắc Bộ, với diện tích 9,96 km vuông, lớn hơn 2 lần đảo Thái Bình (Taiping Island-太平), lớn hơn 4 lần đảo Vĩnh Hưng (Yongxing-). Và Trung Quốc đã điều nghiên những khác biệt của mỗi đảo trong Vịnh Bắc Bộ. Đảo Bạch Long Vĩ được đánh giá tài nguyên phong phú, san hô có trữ lượng dầu khí cao, một lục địa chiến lược có ví trí kinh tế, kiểm soát cả vùng vịnh và đảo Hải Nam, đặc biệt phía Tây của quần đảo Bạch Long Vĩ thuận lợi cho việc lập huyện đảo, nhờ có sông, suối, đường nước ngọt ngầm, núi rừng dày đặc, khí hậu ôn hoà, thuận lợi thủy sản, bắt nuôi cá, ngư trường lớn cho phép hoạt động quanh năm không bị thiên tai.

Theo hiệp ước Pháp˗Thanh 1885, qun đảo Bch Long Vĩ thuc ch quyn ca Vit Nam, và đã có chiu dài lch s hành chánh dân sinh lâu đời gn lin vi vnh thuộc tỉnh Quảng Ninh. Tháng 7 năm 1955, Pháp đóng quân kiểm soát quần đảo Bạch Long Vĩ, sau chiến tranh Việt˗Pháp, H Chí Minh vin c nh Trung Quc bo v Vnh Bc B, Trung Quc đưa mt đơn v cp l đoàn t đảo Hi Nam, chính thc đồn trú trên đảo Bch Long Vĩ vào tháng 3 năm 1957, cùng lúc Trung Quốc cho di dân đến đảo, thành lập "Văn phòng Chính phủ Huyện đảo".

Chiến tranh Nam˗Bc Vit Nam bùng n, H Chí Minh hi h tìm kiếm s h tr ca Trung Quc, đặt Hi Phòng vào phòng th, tăng cường bo v không phận Hà Nội. Trung Quốc lấy quyết định chọn đảo Bạch Long Vĩ làm chiến thuật, thiết lập hệ thống radar, vị trí phòng không, các trạm thông tin liên lạc. Quân đội Trung Quốc ngụy trang thành quân đội Việt Nam, ồ ạt kéo vào đảo Bạch Long Vĩ thêm 3 sư đoàn, và những đảo nhỏ trong Vịnh, từ đó chiếm cứ luôn vùng vịnh Bắc Bộ. Sau đó Trung Quốc tuyên bố ngược :

‒ Cho Đảng Cộng sản Việt Nam mượn vùng Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc tìm mọi cách tránh né, đối đầu trực tiếp quân sự với Mỹ. Cuối cùng, Mao Trạch Đông chơi trò cướp biển "Sâu ăn luỗn thịt-thâm cật thiết nhục (深吃切肉)". Hồ Chí Minh vờ vĩnh đồng ý, mượn tạm đảo Bạch Long Vĩ của Trung Quốc để làm đối lực chiến tranh với Mỹ. Cũng là một cách bán nước thâm hiểm của Hồ Chí Minh.

Sau 1975, Trung Quốc viện dẫn nhiều lý do cho rằng quần đảo Bạch Long Vĩ thuộc về lãnh hải của Trung Quốc, viện cớ dân cư người Hòa sống trên quần đảo, Trung Quốc đã nhiều lần làm áp lực Đảng Cộng sản Việt Nam để lấy (cướp) trọn quần đảo Bạch Long Vĩ. Tuy nhiên vì vẫn còn ái ngại về tính pháp lý của Hiệp ước Pháp˗Thanh 1885 nên chưa vi cướp càn. H Chí Minh chưa qua đời, cũng tha biết mt khi vùng Vnh Bc B đã "Nước đổ d dàng nhưng khó khăn thu hi - xut kh đích thy dch phóng nan thu (出去的水易放难收) !".

Trung Quốc đã lượng định trước quyền lợi lớn. Ai làm chủ quần đảo Bạch Long Vĩ sẽ kiểm soát được đặc khu hành chính đảo Hải Nam và mở đường hàng hải phía Đông Nam, khai thác từ vịnh Bắc Bộ đến cửa huyện đảo Cồn Cỏ thuộc tỉnh Quảng Trị ra Biển Đông.

Tuy quần đảo thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, nhưng Trung Quốc vẫn gào thét khẳng định biển đảo của nhà Hán. Kẻ cướp không từ bất cứ thủ đoạn nào. Tháng 12/1973, Đảng Cộng sản Việt Nam mong muốn Vịnh Bắc Bộ thuộc thẩm quyền của mình để phê duyệt khu vực thăm dò dầu khí đầu tiên cho công ty dầu khí Ý. Ngày 18/1/1974, Trung Quốc nhạy cảm đề nghị Việt Nam tổ chức cuộc đàm phán bình thường hóa về phân định Vịnh Bắc Bộ. Ngày 15/8/1974, Việt Nam-Trung Quốc đồng ý đàm phán, Trung Quôc kêu gọi các công ty dầu khí nước thứ ba, đình chỉ mọi hoạt động thăm dò trong vịnh Bắc Bộ. Hóa ra lãnh hải của Việt Nam thuộc quyền phán quyết của Trung Quốc !

Cùng năm 1974, trong vòng đàm phán Việt-Trung đầu tiên được tổ chức tại Bắc Kinh, Việt Nam đề xuất đàm phán hòa bình, tuy nhiên Đặng Tiểu Bình phóng tay trước mở cuộc chiến tranh ngày 17/2/1979, dùng chiêu bài "dạy cho Việt Nam một bài học" và tiếp theo đó là chiến trận Lão Sơn 2/4/1984-1990, gọi là "Tự vệ biên giới phía Nam".

Ngày 3-4/9/1990, Hội nghị Thành Đô (Tứ Xuyên) bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, đại diện Đảng Cộng sản Việt Nam tha thiết bảo vệ đảng hơn đất nước đã trao cho Trung Quốc kế hoạch nhượng Vịnh Bắc Bộ và những văn kiện bí mật khai thác Vịnh.

Năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận thấy cần thiết mở rộng hội nghị, càng sớm càng tốt, giải quyết những vấn đề biên giới, bao gồm quần đảo Vịnh Bắc Bộ, thành lập ban tư vấn đối ngoại, ban quốc phòng, ban thủy sản, ban bản đồ. Chính quyền địa phương và các bộ phận khác thành lập hai phái đoàn chính phủ đàm phán biên giới, đã hội nghị lần thứ ba (3) về đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ.

Năm 1992 đến năm 2000, hai Đảng Cộng sản và Trung Quốc đã tổ chức tổng cộng bảy (7) cuộc đàm phán cấp Chính phủ, hai phái đoàn gặp nhau ba (3) lần.

Ngày 25/12/2000, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc ký Hiệp định phân định bởi cả hai bên cùng một lúc ký Hiệp định hợp tác nghề đánh bắt và nuôi cá tại Vịnh Bắc Bộ.
Ngày 29 tháng 4 năm 2004 tại Bắc Kinh, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc ký một giao uớc thỏa thuận hợp tác nghề cá bổ sung. Theo thỏa thuận đánh bắt cá trong khu vực mô tả 30.000 cây số vuông, được quyền đánh bắt cá theo qui định, hai bên ngư thuyền Việt-Trung có thể nhập một, thời hạn 15 năm, ngoài các khu vực phía Bắc được đánh cá chung và vẽ thành một ranh giới chuyển tiếp bốn năm bổ sung lại. Cho phép hai đội ngư thuyền Việt-Trung hợp tác khai thác toàn diện.

Đặng Tiểu Bình muốn kết thúc các cuộc đàm phán cho được trong suốt nên đã đề nghị mỗi bên đồng hợp tác 27 năm, cho nhiều thế hệ tiếp nối liên tục, khai thác quần đảo Bạch Long Vĩ. Nói cách khác, Đặng Tiểu Bình muốn tìm thời gian dài để tiện nuốt trửng Vịnh Bắc Bộ không thông qua phân định lại hải giới.

Kể từ đó, Trung Quốc bắt đầu cho xây dựng đường biển Vịnh Bắc Bộ Việt Nam thay cho Việt Nam - (替越南行道- Thế Việt Nam hành đạo !). Trung Quốc nghiêm cấm đánh cá trong Vịnh Bắc Bộ và xung quanh các đảo biển Bạch Long Vĩ  trong phạm vi 15 dặm. Đảng Cộng sản Việt Nam cho phép Trung Quốc vung tay cao hoành hành trên đất nước Việt Nam, tích cực thu tóm tài nguyên Biển Đông. Lẽ tất nhiên Việt Nam bị xói mòn mạnh mẽ, những thế hệ mai sau không còn tài nguyên về biển để sống.

Trung Quốc tráo trở ra quân chiếm đảo trong Vịnh Bắc Bộ, cùng lúc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1974, và đánh chiếm một vài đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988. Trung Quốc phá được vòng vây Biển Đông, lập tức xây thành đắp lũy, khánh thành huyện đảo Tây Sa (quần đảo Hoàng Sa Việt Nam), củng cố vị trí chiến lược trên Biển Đông và khai thác tài nguyên vô tận dưới lòng biển, không còn trở ngại. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cảm ơn Đảng ộng sản Việt Nam đã xử sự như một chư hầu tốt.

Ngày 20/6/2013. Đảng Cộng sản Việt Nam, chính thức ký văn kiện bổ sung bật đèn xanh để Trung Cộng tự do tung hoành, khai thác toàn diện Vịnh Bắc Bộ.
  Nguồn : THX

Theo nguồn tư liệu năm 2007 lưu trữ tại Vụ Đông Nam Á Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam trao đổi hoà bình, bằng cách mở cửa cho kế hoạch bành trướng của Trung Quốc tiến chiếm Việt Nam từng phần.

Và tư liệu này cũng cho biết Vịnh Bắc Bộ được tác động bởi cắm mốc phân giới, nay thuộc Trung Quốc. Hiệp định hiệu lực, toàn bộ vùng biển phía Bắc trong Vịnh Bắc Bộ 128.000 cây số vuông, thuộc thành phố Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông. Trung Quốc ép bức phía Việt Nam phải giảm xuống vùng hoạt động của ngư trường truyền thống 32.000 km vuông, riêng Hải Nam tăng cường ngư thuyền lên đến 6.000 chiếc. Theo tư liệu của Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp thuận 50% ngư trường truyền thống còn lại, sẽ âm thầm hòa tan vào phía Tây đường trung tâm Bắc của Vịnh Bắc Bộ thuộc thị trấn Trạm Giang, thành phố Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông Trung Quốc.

Trung Quốc tạo ra công ăn việc làm cho thành phố Trạm Giang, hiện nay ngành ngư nghiệp ở đây hoạt động mạnh, dọc theo khu vực quần đảo Vịnh Bắc Bộ, có khoảng 700.000 - 800.000 ngư dân, với sản lượng mỗi năm 540.000 tấn thủy sản, thu hoạch 5,9 tỷ nhân dân tệ.

Tại Vịnh Bắc Bộ và quần đảo Bạch Long Vĩ, đã xảy nhiều tình trạng đau xót trong 48 năm qua (1975-2013) vì chính quyền cộng sản Việt Naml bỏ rơi nhân dân. Biển của Việt Nam nhưng Trung Quốc làm chủ, ngư dân Việt hóa thành nô lệ lao động cho Trung Quốc. Ngư nghiệp Việt Nam biến mất trước ngày phân định Vịnh Bắc Bộ. Đa số ngư dân rời cuộc sống biển, từ bỏ con tàu lên bờ, thay nghề đổi nghiệp. Vì vậy mà 48 năm qua tại Vịnh Bắc Bộ không có một sự cố nào xảy ra và không một ai nói đến tranh chấp Vịnh Bắc Bộ, lý do đơn giản là vì lãnh hải của Tổ quốc Việt Nam ngày nay đã thuộc chủ quyền Trung Quốc.

Điều này Đảng Cộng sản Việt Nam hiểu rõ hơn ai hết. Chỉ có nhân dân Việt Nam gần như tối tăm không biết sự thật tại vùng Vịnh Bắc Bộ. Vịnh đã thay đổi chủ quyền và cho đến nay nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn cấm không cho phổ biến tin tức về tình trạng mất Vịnh. Nếu nhân dân mở miệng hỏi, ghé mắt theo dõi thì chỉ ở tù, rờ mó vào là mất mạng. Hãy "để đảng lo", cho dù mất nước, đảng còn mình (đảng viên) vẫn còn ! Hồ sơ bán nước được xem là hồ sơ tối mật của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo báo cáo của Cục Thủy Sản Trung Quốc, từ nay ngư trường biển Đông đã lặng gió, việc khai thác ở phía Bắc và phía Tây của đường trung tâm Vịnh Bắc Bộ an toàn. Việt Nam đã cam kết gửi Cảnh sát biển gìn giữ an ninh Vịnh Bắc Bộ, nay không còn trầm trọng như trước, ngư dân tiếp tục cạnh tranh nguồn lợi thủy sản, khai thác tối đa và toàn diện.

Trung Quốc còn buộc trói Đảng Cộng sản Việt Nam theo những thỏa thuận đã đồng ý tại Hội nghị Thành Đô tháng 09/1990, theo đó Biển Đông và Vịnh Bắc Bộ không còn những tranh chấp nghiêm trọng, tình hình an toàn cho việc khai thác thủy sản, mọi vấn đề tai nạn khác trên biển không gia tăng, khai thác và quản lý nghề cá thuận lợi hơn. Từ đó, Đảng, nhà nước cộng sản Việt Nam thực hiện mật ước miệng bảo đảm cho ngư nghiệp Trung Quốc vào khai thác tài nguyên trong Vịnh, kể cả ngoài biển Đông, và cam kết mật độ khai thác thủy sản không được suy giảm !
Dưới đây là những lời tố cáo do miệng lưỡi của kẻ “vừa đánh trống vừa ăn cướp” :  Đảng Cộng sản Việt Nam không thực lòng đảm bảo an ninh ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, cản trở sinh hoạt của ngư dân Trung Quốc, ngư dân khai thác thủy sản không được trọng ven bởi đã xảy ra những sự cố.

- Ngày 12/6/1992, ngư thuyền Đam Châu (儋州船在) số 06.002, đăng kiểm Hải Nam (海南) hoạt động tại vị trí phía Bắc Vịnh 533 (儋州06002船在北部湾533), trong vùng biển Vịnh Bắc Bộ. Trong lúc ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá, quân đội Việt Nam hợp tác với hải phỉ, tịch thu máy móc, lưới đánh cá, dụng cụ sản xuất ngư nghiệp, lấy cá, bắt cóc thủy thủ đoàn tống tiền. Thiệt hại kinh tế trên 89.000 nhân dân tệ.


Đội ngư thuyền Đam Châu (
儋州船在) tại cảng Hải Nam (海南)

‒ Ngày 9/2/1993, đội ngư thuyền Lâm Cao (临高船在) số 12.169, 12.150, 12.001, 12.162, 12.002, 12.163 đăng kiểm Hải Nam (海南), hoạt động ở phía Bắc vị trí Vịnh 338, bị ba (3) tàu chiến của Hải quân Việt Nam cướp sạch : 62 ngư dân bị đánh đập, thuyền trưởng Dương Văn Khánh (杨文庆˗Yang Wenqing) bị thương. Quân cướp Việt Nam lấy "lưới rê 1600", máy ròng 6, pin 6, lấy cắp tất cả các phương tiện của ngư dân sinh sống, và bọn cướp đòi mãi lộ 57.600 nhân dân tệ cho mỗi tàu. Ngư dân thiệt hại kinh tế trực tiếp hơn 100 triệu nhân dân tệ.

‒ Ngày 17/3/1993, ngư thuyền Lâm Cao (临高船在) số 03.108, đăng kiểm Hải Nam, hoạt động tại vĩ độ tạm thời trong Vịnh Bắc 18°23', kinh độ 108°. Khi quân đội Việt Nam đến cướp, bắt cóc tất cả ngư dân, tịch thu công cụ sản xuất và các mặt hàng gia dụng, buộc ngư dân phải mãi lộ 30.000 nhân dân tệ. Thiệt hại kinh tế trực tiếp 105.000 nhân dân tệ.

‒ Ngày 27/3/1993, đội ngư thuyền Lâm Cao (临高船在) số 11.010 và 12.109 đăng kiểm Hải Nam, đang đánh bắt cá tại vị trí 534-8 trong vùng Vịnh Bắc Bộ. Khi quân đội Việt Nam đến cướp, tịch thu thiết bị sản xuất ngư nghiệp, mỗi thuyền bị phạt 60.000 nhân dân tệ. Thiệt hại kinh tế là 275.000 nhân dân tệ.

Đội thuyền biển Lâm Cao (
临高船在), đang thả neo tại đảo lớn Bạch Long Vĩ

‒ Ngày 6-10 tháng 5/1993, đội ngư thuyền Lâm Cao (临高船在) số 11.329, 11.030, 11.329, và 11.030, hoạt động tạm thời ở vị trí 487-5 phía bắc Vịnh. Quân đội cướp biển Việt Nam, tịch thu tất cả các công cụ sản xuất, tống tiền từ 50.000 nhân dân tệ cho mỗi thuyền. Thiệt hại kinh tế trực tiếp 186.000 nhân dân tệ.

‒ Ngày 27/12/1993, đội ngư thuyền Lâm Cao (临高船在) số 03.026, 03.106, 12.145, 11.092, 11.135, 12.208 và 12.234 đăng kiểm Hải Nam, đánh bắt cá phía Bắc tại vị trí Vịnh 441-4. Quân đội cướp biển Việt Nam đòi tiền xuất cảng, thông qua trung gian Văn phòng khu tự trị Quảng Tây thanh toán cho mỗi tàu đánh cá 67.000 nhân dân tệ, riêng thuyền số 12.208 trực tiếp chuyển giao tiền cho phía Việt Nam. Thiệt hại kinh tế tổng cộng 1,01 triệu nhân dân tệ.

‒ Ngày 6/5/1995, ngư thuyền Quỳnh Hải (琼海船在) số 00.339 đăng kiểm Hải Nam, thuyền hoạt động trong quần đảo Nam Sa Nam Vi (南沙南薇) vĩ độ 7°50 'kinh độ 111°44'. Quân đội Việt Nam tịch thu 19 tấn "kiếm ngư", trị giá 80.000 nhân dân tệ.

Đoàn ngư thuyền Quỳnh Hải (
琼海船在), hoạt động tại Vịnh Bắc Bộ. Ảnh: Huỳnh Tâm

‒ Ngày 13-17/5/1995, ngư thuyền Lâm Cao (临高船在) số 03.013 đăng kiểm Hải Nam, thuyền đánh cá trong Vịnh Bắc 442-1. Chiến thuyền quân đội Việt Nam nổ súng, có năm (5) ngư dân bị bắn vào chân, tịch thu máy liên lạc, máy bơm nước, hai vải gió, tổng cộng 6000 nhân dân tệ.

‒ Ngày 31/5/1995, ngư thuyền Đam Châu (儋州船在) số 00513, đăng kiểm Hải Nam, thuyền đánh cá trong Vịnh Bắc Bộ tại vị trí 442, bị quân đội Việt Nam bắn phá và bắt cóc, kéo vào đảo Nam Cát Bà (南吉婆), cướp công cụ sản xuất, thiệt hại kinh tế 28.000 nhân dân tệ.

˗ Ngày 17/5/1995, đội ngư thuyền Lâm Cao (临高船在) số 11363, 05023 và 12.107 đăng kiểm Hải Nam, đang đánh cá ở phía Bắc Vịnh, vĩ độ 19°18', kinh độ 107°10'. Quân đội cướp biển Việt Nam, lấy toàn bộ công cụ sản xuất ngư nghiệp và các vật tư khác, tống tiền mỗi thuyền $ 4,400. Thiệt hại kinh tế tổng cộng 550.000 nhân dân tệ. Được biết có thuyền bị quân đội cướp thanh toán tiền đến lần thứ 18.

‒ Ngày 12/5/1995, ngư thuyền Đam Châu (儋州船在) số 11.036 đăng kiểm Hải Nam, hoạt động tại vĩ độ Bắc 20°20 ', kinh độ 107°35'. Gặp phải quân đội cướp biển Việt Nam, tịch thu hết công cụ sản xuất, và hàng gia dụng, thiệt hại kinh tế khoảng 33.000 nhân dân tệ.

Đội ngư thuyền Quỳnh Ngư (
琼渔船在), Lãnh hải biển Đông Việt Nam. Nguồn : Huỳnh Tâm

‒ Ngày 5-9/3/1995, ngư thuyền Đam Châu (儋州船在) số 17.007 đăng kiểm Hải Nam, hoạt động ở phía bắc Vịnh tại vĩ độ 19°47', kinh độ 107°58' . Chiến thuyền quân đội Việt Nam cho súng bắt lửa cháy, làm chết tại chỗ ngư dân Ngô Đại Nho (吴大儒), ngư dân Lý Tiểu Tam (李小三-Li ba), ngư dân Lý Trấn Kiệt (镇杰-Lizhen Jie), và ngư dân Phù Chiến Nghĩa ( 战义-Yi Fu) bị chấn thương.

‒ Ngày 9/4/1995, đội ngư thuyền Quỳnh Ngư (琼渔船在) số 12.114, 12.123 đăng kiểm Hải Nam, đánh bắt cá ở phía Bắc Vịnh, tại vĩ độ 20°35', kinh độ 107°49'. Đang hoạt động bị quân cướp biển Việt Nam, 23 ngư dân thuộc hai đoàn thủy thủ ngư nghiệp đã mất tích không trở về Hải Nam.

Từ 1991-1995, truyền thông Trung Quốc cho biết "những đội thuyền ngư nghiệp của Hải Nam, khai thác thủy sản trong Vịnh Bắc Bộ, bị những tên cướp biển Việt Nam tấn công 110 lược, làm bị thương hai người. Riêng quân đội Việt Nam nổ súng uy hiếp, làm thiệt mạng nhiều ngư dân, cướp 12 vụ, 30 thuyền bị tịch thu, và trường hợp tống tiền 286 ngư dân, ngài ra có một số vụ cướp biển khác không xác định được tên tuổi".

Theo thống kê của tỉnh Quảng Đông (广), ngư dân Trung Quốc thiệt hại kinh tế trực tiếp 18.240.000 nhân dân tệ, và Quảng Tây (广西), ngư dân thiệt hại kinh tế trực tiếp 18.172.000 nhân dân tệ.

Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam vì khiếp nhược đã phải chấp nhận bồi hoàn cho Bắc Kinh những thiệt hại trên. Trong sự hợp tác và khai thác toàn diện, hai đảng cùng có lợi, trải qua đã 48 năm (1975-2013), chưa ai nghe nhà nước cộng sản Việt Nam công bố lợi ích quốc gia trên số thành được thụ hưởng 5,9 tỷ nhân dân tệ mỗi năm. Trái lại đảng và nhà nước ta ra sức bên vực, bao che hành động của Trung Quốcvi phạm lãnh hải chủ quyền Việt Nam, và từ đó xuất từ ngữ "tàu lạ". Trung Quốc thừa dịp đưa vào tự điển và học đường và họ giải thích một cách rất thú vị : "Tàu lạ", xuất phát từ tranh chấp Biển Đông, ám chỉ tàu biển Trung Quốc".

Đảng Cộng sản Việt Nam, mang phải bệnh "ham sống sợ chết", không dám tố cáo Trung Quốc vi phạm chủ quyền lãnh hải Biển Đông của Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam giả vờ không nghe, không biết. Họ chưa hề phân ưu hay cứu trợ những gia đình ngư dân bị Trung Quốc cướp, tống tiền và sát hại. Đảng Cộng sản Việt Nam quá khiếp nhược đối với Trung Quốc. Nhân dân Việt Nam nhất định phải biết rõ "đồng đảng cộng sản  cần sống, ta mạnh dân thua". Nay thân phận dân tộc Việt Nam không thể làm trâu, thân cày, nô lệ từ thế hệ này đến thệ hệ mai sau. Việc nước tất nhiên phải phán xét, dù sớm hay muộn cũng kết thúc, và ngay từ bây giờ nhân dân Việt Nam cần đi đến một lộ trình Dân Chủ Đa Nguyên cho Việt Nam, không còn con đường nào khác. Chúng ta không còn thời gian nữa.

Huỳnh Tâm



View My Stats